Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
"Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". (Hồ Chí Minh)
Giá trị triết lý nhân văn coi trọng con người trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những giá trị đạo đức, tri thức và khát vọng phát triển cho dân tộc Việt Nam. Một trong những đặc trưng nổi bật trong tư tưởng của Người chính là triết lý nhân văn coi trọng con người và phát triển toàn diện, mà theo đó, con người là mục tiêu và động lực của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người không chỉ bao gồm những quan điểm về tự do, hạnh phúc, mà còn hướng đến sự phát triển con người toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Những giá trị này đã có ảnh hưởng sâu rộng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam.

1. Triết lý nhân văn coi trọng con người trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

Khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng của nhân loại từ xưa đến nay cho thấy đã có nhiều học thuyết, tư tưởng đề cập đến vấn đề con người, vị trí của con người nhìn từ những góc độ, trình độ khác nhau. Khổng Tử có tư tưởng “nhân trị". Mạnh Tử đề ra tư tưởng “nhân chính" với quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về dân bản. Ông nói: Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi. Tư tưởng trọng dân của Mạnh Tử thể hiện qua tư tưởng có dân mới có nước, có nước mới có vua, dân là quý nhất, quốc gia thứ hai, vua không đáng trọng. Trần Hưng Đạo có quan điểm: “Khoan thư sức dân để thành kế dày rễ bền gốc, đó là sách lược giữ nước". Trong lịch sử Việt Nam, điều này được nói đến như một kế sách đặc biệt nhằm cải thiện cuộc sống của nhân dân – gốc rễ của một quốc gia - trong thời bình. Việc giảm nghèo, phát triển kinh tế trong nhân dân chính là cách thức, sách lược giữ nước lâu dài.

Karl Marx cho rằng: Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới, con người chính là thế giới con người, là Nhà nước, là xã hội.

Dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin, cách nhìn nhận về con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những giá trị khác biệt so với các quan điểm trước đây. Từ việc đề cao vai trò của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con người chính là vốn quý nhất, con người là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất cũng như tinh thần cho xã hội. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của mọi sự nghiệp cách mạng, là mục tiêu và động lực của mọi cuộc đấu tranh, khác với con người trong xã hội phong kiến chỉ là công cụ của giai cấp thống trị. Người khẳng định “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"[1].

Khi đánh giá về vai trò, vị trí của con người, trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người được nhìn nhận một cách chung chung, trừu tượng. Con người ở đây hiện hữu không chỉ với tư cách một cá nhân mà còn là thành viên cụ thể của mỗi gia đình, của từng cộng đồng người trong xã hội hay con người của quốc gia, dân tộc. Đó là con người cụ thể gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, là con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người"[2]. Do vậy, mỗi xã hội không chỉ cần nhìn nhận con người là đối tượng cần phải bảo vệ quyền lợi, mà còn phải xem đó là nhân tố quan trọng quyết định của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa, giá trị nhân văn sâu sắc khi luôn được đặt ở vị trí quan trọng nhất trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Người cho rằng chỉ khi giành được độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng được một xã hội không có sự phân biệt giai cấp, điều kiện sống của con người mới thực sự được nâng cao. Trong một xã hội không có sự áp bức, không có sự bất công, con người mới được sống trong môi trường công bằng và bình đẳng, lúc đó con người mới có thể hạnh phúc, có cơ hội được phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như có thể cống hiến sức lực của mình cho sự phát triển chung của đất nước. Do đó, tự do không chỉ là quyền lợi cá nhân mà còn là quyền lợi tập thể, quyền lợi của cả dân tộc. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người vẫn phải được đặt lên hàng đầu và mọi công cuộc cách mạng đều phải vì con người, vì quyền lợi của nhân dân. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"[3]. Có thể nhận ra rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc và đổi mới tư tưởng của các học thuyết, tôn giáo trong việc dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội. Nhiều cái mới, các yếu tố tích cực, cách mạng cũng như những giá trị truyền thống tốt đẹp được chắt lọc, phát huy. Từ đó, tư tưởng đề cao quyền bình đẳng của con người, quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay đã trở thành một triết lý nhân văn trong tư tưởng của Người.

Lịch sử đã chứng minh sự phát triển của xã hội loài người không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào sinh ra mà do bản thân con người đã tự sáng tạo nên chính lịch sử của mình. Qúa trình hình thành tiến bộ xã hội không phải là một quá trình tự động, mà nó buộc phải thông qua hoạt động của mọi người trong xã hội. Thế nên trong hành trình đi tới tháo bỏ gông cùm xiềng xích để giải phóng con người, mang lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí của con người đối với sự nghiệp cách mạng, luôn xem con người là vốn quý nhất, là mục tiêu của cách mạng. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích chính đáng của con người, tất cả phải xuất phát từ con người, phải đảm bảo lấy con người làm trung tâm. “Vì vậy chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi"[4]. Bác còn dặn: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh"[5], phải lấy tiêu chí lợi, hại cho dân làm tiêu chí hành động và thước đo một Đảng cách mạng chân chính.

Ngay cả khi viết trong Di chúc vào tháng 5-1968, Người cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc của mình với con người thông qua điều gửi gắm lại dành cho mọi tầng lớp nhân dân sau khi đất nước thống nhất: “Đầu tiên là công việc đối với con người"[6]. Người không quên căn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải có kế hoạch rõ ràng, công việc cụ thể để hàn gắn vết thương do chiến tranh để lại cho mỗi tầng lớp nhân dân - những người đã hy sinh xương máu, những người đóng góp sức lực cho cuộc kháng chiến và dành cả sự quan tâm đặc biệt cho những nhóm người “yếu thế" trong xã hội. Đó những công việc cụ thể cần làm với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu; những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; phụ nữ; những nạn nhân của chế độ xã hội cũ; với nông dân. Người cũng trù liệu “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân"[7]. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải chịu trách nhiệm trước dân; “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"[8], từ đó có thể thực hiện những quyền cơ bản, những lợi ích cụ thể và sự phát triển của con người một cách tốt nhất. Người căn dặn: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập không để làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"[9].

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có lòng tin tuyệt đối ở con người khi khi nhận định vai trò của con người - nhân dân là nguồn sức mạnh của Đảng “Dựa vào dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng có thể làm được"[10]. Người có niềm tin vững chắc nhân dân chính là lực lượng giữ vai trò quyết định đến sự thành bại của cách mạng,  “việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng: Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong"[11]. Do vậy, trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng kiến thiết đất nước không thể thiếu vai trò của nhân dân, bất kỳ việc gì cũng cần có sự hiện diện của nhân dân, nếu không thì không thể thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng con người về mặt vật chất mà còn chú trọng chăm lo cho việc phát triển con người đồng bộ cả về mặt trí tuệ, thể chất cũng như tinh thần và đạo đức. Điều này không chỉ giúp tạo ra những con người mới có phẩm chất cao đẹp mà còn tạo ra một lực lượng lao động có trí tuệ và đạo đức, có trình độ phát triển toàn diện và hoàn toàn xa rời chủ nghĩa cá nhân.

Khát vọng hạnh phúc của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở mức độ mang lại sự tự do cho con người mà còn là việc tạo ra một xã hội mà trong đó mọi người đều có cơ hội phát triển trong một môi trường công bằng và bình đẳng. Hạnh phúc không đơn thuần là sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất, nó còn là sự phát triển của con người về mặt tinh thần, về những giá trị đạo đức, về trí tuệ, và tình yêu thương đồng bào. Người quan tâm đến việc xây dựng một xã hội nhân ái nơi mà con người luôn đoàn kết với nhau, sự tương trợ và sẻ chia được coi trọng xem trọng như là một giá trị cốt lõi của đời sống xã hội. Người cho rằng, chỉ có sự gắn kết và yêu thương lẫn nhau giữa người với người thì xã hội mới phát triển bền vững và người dân mới thực sự có được hạnh phúc.

2. Triết lý nhân văn coi trọng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự tiếp nối của Đảng ta trong tiến trình cách mạng

Trong sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam và xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng tư tưởng thân dân được đúc kết qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông. Tư tưởng này được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể nước ta và được nâng lên tầm cao hơn, nhân văn hơn trong quá trình xây dựng con người mới. Về vấn đề xây dựng con người mới, đạo đức mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa, Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải đánh bạt những tư tưởng công thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa cá nhân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa tập thể thắng lợi, tức là phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí"[12]. Quan điểm đó không chỉ có ý nghĩa đương thời mà càng trở nên quan trọng hơn trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, việc phát triển con người toàn diện, bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi tầng lớp trong xã hội vẫn là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) chỉ rõ: “con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống"[13]. Tại Đại hội VI, Đảng đề ra đường lối đổi mới, trong đó chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người... Trong việc phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động..."[14]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân"[15]. Để xây dựng và phát huy nhân tố con người trong thời kỳ mới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề xã hội liên quan đến con người. Bảo đảm các điều kiện để con người được hưởng thụ những chính sách xã hội một cách tốt nhất trong vai trò là trung tâm, chủ thể của mọi hoạt động. từ đó có thể khơi dậy, đánh thức được tài năng, trí tuệ của con người trên tất cả các lĩnh vực, hoạt động của đời sống xã hội. Một trong năm bài học hết sức quan trọng được rút ra tại Đại hội XII của Đảng là: “Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc"[16]. Đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc"[17]. Đặc biệt, cũng tại Đại hội lần thứ XIII, chủ trương trọng tâm cơ bản, xuyên suốt phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc được Đảng ta xác định chính là: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững"[18].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về phát triển con người toàn diện càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Khi đất nước tham gia vào các tổ chức quốc tế, hợp tác với nhiều quốc gia, việc giữ vững và phát huy những giá trị nhân văn, coi trọng con người và phát triển toàn diện là yếu tố then chốt để xây dựng một Việt Nam mạnh mẽ, hội nhập mà vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về triết lý nhân văn, coi trọng con người và phát triển toàn diện đã và đang là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Giá trị cốt lõi trong tư tưởng của Người là sự phát triển toàn diện của con người, giúp xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, và tiến bộ. Những giá trị này không chỉ có ảnh hưởng sâu rộng trong công cuộc cách mạng giành độc lập, mà còn là kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày nay.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.453.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t. 6, tr.130

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t 4, tr.64

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t 9, tr.518

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.4, tr.65

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.15, tr.616

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.15, tr.617

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.15, tr.612

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.4, tr.175

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.10, tr.47

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.15, tr.280

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, t.12, tr. 604

[13] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 5.

[14] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.86

[15] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.76

[16] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 69

[17] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116

[18] ĐCSVN: Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 215 - 216​



Nuyễn Thị Thanh Hiền

Các tin khác

Liên kết webiste

Số lượt truy cập

Save Conflict. Your changes conflict with those made concurrently by another user. If you want your changes to be applied, click Back in your Web browser, refresh the page, and resubmit your changes.Trong ngày:
Tất cả:
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐỒNG NAI​
116 Tổ 16 KP2 P.Bình Đa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai
​ Điện thoại: 02513. 808. 220 - Email: banb​ientaptctdn@gmail.com