Tóm tắt: Công nghiệp nặng là một lĩnh vực công nghiệp sử dụng nhiều vốn và ứng dụng kỹ thuật. Đồng thời, tác động khá nhiều đến môi trường và tốn kém chi phí đầu tư. Tuy nhiên, công nghiệp nặng lại đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của Việt Nam, hiện vẫn đang có triển vọng rất lớn. Vì vậy, cần có những nghiên cứu một cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn để tìm ra những giải pháp thúc đẩy cho ngành công nghiệp nặng của Việt Nam phát triển đúng hướng. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp nặng sẽ có giá trị định hướng chỉ đạo thực tiễn ngành công nghiệp nặng ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong quá trình Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa - giai đoạn thứ 2 của quá trình phát triển công nghiệp.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; công nghiệp nặng; sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh với nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên bàn về phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng trong tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được đề cập một cách toàn diện. Tuy nhiên, tư tưởng về công nghiệp nặng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế, là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những chỉ dẫn đặc sắc của Hồ Chí Minh về công nghiệp nặng ở Việt Nam được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về tính tất yếu của công nghiệp nặng
Trong bài báo thế nào là công nghiệp hóa với bút danh C.K đăng trên báo Nhân Dân, ngày 22-1-1960, Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Các ngành công nghiệp làm ra máy móc, gang, thép, than, hóa chất…gọi chung là công nghiệp nặng”. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò đòn bẩy của sản xuất công nghiệp đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rất rõ rằng, đối với Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, và công nghiệp hóa là cơ sở, tiền đề để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn có nhiều nhà máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, gang, thép, than, dầu…Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt và tầm nhìn xa, trông rộng, Hồ Chí Minh đã đi đến quyết định rất đúng đắn về công nghiệp hóa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam - một đất nước không chỉ lạc hậu về nông nghiệp mà còn lạc hậu cả về công nghiệp. Công nghiệp rất nhỏ bé, rời rạc, phân bố không đều, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo máy. Sau gần một thế kỷ đô hộ, thực dân Pháp chỉ tiến hành khai thác, vơ vét, bóc lột; các cơ sở công nghiệp mà chúng để lại rất ít, lạc hậu về trình độ lại bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh: “Đế quốc Pháp để lại cho ta một nền kinh tế rất nghèo nàn. Trong nông nghiệp thì sản xuất nhỏ chiếm đại bộ phận, kỹ thuật vô cùng lạc hậu. Công nghiệp thì rất nhỏ bé và lẻ tẻ. Nông nghiệp và công nghiệp lại bị tàn phá nặng nề trong mười lăm năm chiến tranh. Đã vậy khi chúng rút khỏi miền Bắc, thực dân Pháp lại ra sức phá hoại kinh tế”. Do đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm thấp như Việt Nam cần phải tập trung cho công nghiệp hóa. Ngày 12 - 07 - 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ”. Kỹ nghệ (tức là công nghiệp) được Hồ Chí Minh xem là một trong ba điều kiện quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Do đặc thù riêng, Việt Nam chưa có được các tiền đề đó, đặc biệt là kỹ nghệ. Mà đặc điểm lớn nhất của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ chi phối các đặc điểm khác là nước ta “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Chính đặc điểm này quy định tính gián tiếp của quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nó cho phép Việt Nam thực hiện con đường “phát triển rút ngắn”. Chúng ta, “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” nghĩa là chúng ta bỏ qua sự thống trị của giai cấp tư sản nhưng chúng ta vẫn cần kế thừa những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đạt được về lực lượng sản xuất, cơ sở kinh tế. Vì vậy, sự nghiệp “phát triển rút ngắn” không cho phép chúng ta đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, vi phạm quá trình lịch sử tự nhiên.Đây được xem là điểm độc đáo trong tư duy Hồ Chí Minh về sự lựa chọn cách tiến hành công nghiệp hóa ở Việt Nam.
Có thể thấy, những luận giải của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vừa phản ánh những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về công nghiệp hóa nói chung, vừa thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận về tính tất yếu của công nghiệp hóa trong điều kiện một nước nông nghiệp, lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, trọng tâm của công nghiệp hóa ở Việt Nam vẫn là phát triển công nghiệp nặng, phát triển ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất, trang bị kỹ thuật mới cho nền kinh tế quốc dân. Trong bài báo thế nào là công nghiệp hóa với bút danh C.K đăng trên báo Nhân Dân, ngày 22-1-1960, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính tất yếu phải phát triển công nghiệp nặng: “Công nghiệp nặng là đầu mối để mở mang các ngành công nghiệp khác vàcung cấp máy móc cho nông nghiệp. Cho nên, chưa có công nghiệp nặng thì chưa thể gọi là công nghiệp hóa. Chưa có công nghiệp nặng, thì chưa thể có một nền nền kinh tế tự chủ và giàu mạnh được”. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, công nghiệp nặng tạo tiền đề cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và giàu mạnh.
Thứ hai, về vị trí, vai trò của công nghiệp nặng đối với công nghiệp hóa
Vị trí của công nghiệp hóa đã được trình bày tại Đại hội III của Đảng (1960): “Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Điểm mấu chốt trong công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp nặng là nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mới có thể cung cấp những tư liệu sản xuất cho công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm thực hiện không ngừng tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, phát triển đến cao độ nền kinh tế quốc dân, cải thiện không ngừng đời sống của nhân dân lao động”. Việc xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là một trong những nội dung kinh tế chủ yếu nhằm xây dựng lực lượng sản xuất mới, hiện đại. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ vai trò tiến bộ lịch sử của công nghiệp hóa, đó là quá trình thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, giải phóng sức lao động, giải phóng con người, tạo ra những bước đột phá mới trong nền văn minh công nghiệp. Như vậy, công nghiệp hóa có khả năng đem đến một năng suất lao động xã hội mới cao - nhân tố quyết định để chủ nghĩa xã hội có thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Khi nói về mục đích của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Có khi Người nói một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Song, muốn đi tới chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, phải trải qua một thời kỳ quá độ để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Đã nhiều lần Người khẳng định vai trò của nông nghiệp, coi nông nghiệp là gốc, nhưng Người vẫn nhấn mạnh công nghiệp hóa mới là con đường cơ bản để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân. Người nêu rõ: “Hiện nay, chúng ta sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta”. Và trong quá trình công nghiệp hóa phải hết sức chú trọng phát triển công nghiệp nặng bởi vì “Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng. Như thế vừa cải thiện đời sống, vừa tích lũy. Cải thiện đời sống từng bước theo khả năng, đồng thời phải tích lũy để kiến thiết”.
Theo Hồ Chí Minh, trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam vẫn là phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp nặng là ngành công nghiệp cung cấp tư liệu sản xuất chính về cơ sở kỹ thuật vật chất cho các ngành của nền kinh tế quốc dân; do đó, phát triển công nghiệp nặng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng”, vì “Công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế độc lập”.
Tại Hội nghị của Bộ Công nghiệp nặng ngày 31-12-1964, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh hơn nữa vai trò của công nghiệp nặng: “Nhiệm vụ của công nghiệp nặng rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Để nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân, để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng… Công nghiệp nặng phải cung cấp đầy đủ máy móc cho các loại công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp phát triển nhanh chóng”.
Là một nước nông nghiệp, bên cạnh việc nhấn mạnh phát triển công nghiệp nặng, Hồ Chí Minh cũng đã chú trọng đến công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, Người cho rằng, công nghiệp hóa nông nghiệp là trang bị máy móc cho nông nghiệp, cơ khí hóa sản xuất.Trong dịp nói chuyện với cán bộ, công nhân nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn no thì phải sản xuất nhiều gạo, muốn ấm thì sản xuất nhiều vải, muốn có gạo, có vải thì nông nghiệp không thể để mãi như hôm nay mà phải có máy móc, phải có nhiều máy và máy tốt. Máy móc là do quá trình công nghiệp đem lại”. Hơn nữa, phát triển công nghiệp tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn: “Công nghiệp phát triển thì sẽ giúp nông thôn ta về thủy lợi, về phân bón, về nông cụ cải tiến, về máy móc nông nghiệp, về sức điện”
Thứ ba, về cách thức, các bước tiến hành công nghiệp nặng
- Công nghiệp nặng trong cơ cấu của nền kinh tế
Xuất phát từ đặc điểm kinh tế đất nước, ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một cơ cấu kinh tế với công nông nghiệp hiện đại. Trong báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi, tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, Người đã phác thảo mô hình kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Chính sách kinh tế của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”. Tại Hội nghị của Bộ Chính trị bàn về phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế sau hòa bình, có một số ý kiến muốn tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp nặng, Hồ Chí Minh phân tích đặc thù của đất nước và đưa ra quan điểm rất sáng tạo như sau: “Mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị…Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan…Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Làm trái với Liên Xô cũng là Mácxít. Trung Quốc phát triển cả công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, đồng thời phát triển cả nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”
- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế, không được chủ quan, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
Hồ Chí Minh một mặt chú trọng phát triển công nghiệp, mặt khác khuyến khích đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, bởi “công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Ngoài yếu tố kinh tế, sự phát triển thể hiện mạnh về chính trị”. Đó là cơ sở cho việc đảm bảo một nền kinh tế độc lập. Tuy nhiên, phát triển công nghiệp nói chung công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ nói riêng, không được tiến hành tràn lan; mà phải có mục tiêu gắn với từng thời điểm cụ thể và đặc thù của từng địa phương. Phát triển công nghiệp cần “phải căn cứ vào khả năng của địa phương về nguyên liệu, vật liệu, máy móc, cán bộ và công nhân kỹ thuật”. Hay nói cách khác, đó là ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp có ưu thế. Đồng thời, để phát triển công nghiệp một cách toàn diện cần phải có bước đi cụ thể, không được chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn: “Xây dựng một nền công nghiệp đầy đủ như trên không phải là dễ. Các nước tư bản phương Tây đã phải mất mấy trăm năm. Chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể rút ngắn lại vào khoảng mười lăm năm. Nhưng phải cố gắng nhiều, phải phấn đấu gian khổ”
- Phát triển công nghiệp nặng đồng thời phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công nghiệp (bao gồm cả công nghiệp nặng) và nông nghiệp vừa là mục tiêu vừa là động lực và có mối quan hệ biện chứng trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng nếu không phát triển công nghiệp.
Trong bài viết hoan nghênh Hội nghị cán bộ quản lý xí nghiệp, đăng trên Báo Nhân Dân, số 616, ngày 9/11/1955, Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp: “Công nghiệp và nông nghiệp là như hai chân của nền kinh tế nước nhà. Chân phải thật vững thật khỏe, thì kinh tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng”. Người còn chỉ rõ mối tương hỗ giữa công nghiệp và nông nghiệp: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế…Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì bước tiến sẽ nhanh, và nhanh chóng đi đến mục đích” Và: “Công nghiệpphải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu…để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển”.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phát triển song hành cả công nghiệp và nông nghiệp vừa là bức thiết vừa là khách quan đối với nền kinh tế trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như Việt Nam. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt và tầm nhìn xa, trông rộng, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn độc đáo, sáng tạo: Ở Việt Nam, cơ sở và tiền đề của công nghiệp hóa là nông nghiệp; phải bắt đầu từ nông dân và lấy nông nghiệp làm khâu đột phá: “Nước ta là một nước nông nghiệp…Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”
Thực tế cho thấy, những năm gần đây, trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nông nghiệp đã khẳng định vai trò là “bệ đỡ” vững chắc của nền kinh tế. Vì vậy, những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa công nghiệp và nông nghiệp trong các giai đoạn lịch sử trước đây sẽ là cơ sở lý luận hết sức quan trọng để Đảng ta vận dụng sáng tạo nhằm khai thác các tiềm năng, lợi thế để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò “bệ đỡ” của nông nghiệp trong thời gian tới
- Nguồn lực để phát triển công nghiệp nặng
Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và Chính phủ bắt tay ngay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi nửa nước. Trong quá trình đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng cơ sở, tiền đề, điều kiện cho công nghiệp hóa. Người cho rằng: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại”. Người cũng giải thích rất rõ nguồn lực để xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Theo Người, nguồn lực bên trong có ý nghĩa quyết định và nguồn lực bên ngoài giữ vai trò quan trọng. Nguồn lực bên ngoài là sự giúp đỡ của các nước, nguồn lực bên trong là tinh thần tự lực cánh sinh: “Chúng ta cần biết ơn sự giúp đỡ của các nước anh em, cần học hỏi các đồng chí chuyên gia bạn. Nhưng phải biết tự lực cánh sinh là chính”. Theo Bác, nguồn lực bên trong ngoài ý chí tự lực tự cường, còn là sự tham gia của lực lượng toàn dân, của các thành phần kinh tế “đó là công tác chung của tất cả mọi người”.
Tóm lại, những chỉ dẫn đặc sắc của Hồ Chí Minh về phát triển công nghiệp nặng không chỉ có giá trị định hướng chỉ đạo phát triển nền kinh tế đất nước trong các giai đoạn lịch sử trước đây mà còn có giá trị cả về lý luận và thực tiễn để Đảng ta vận dụng sáng tạo vào phát triển nhằm khai thác tối đa các lợi thế mà công nghiệp nặng mang lại để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.