Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
"Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". (Hồ Chí Minh)
THỜI CƠ, THÁCH THỨC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG ĐƯA ĐẤT NƯỚC VƯƠN MÌNH TRONG KỶ NGHUYÊN MỚI

Tóm tắt: Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam được dự báo có nhiều biến chuyển nhanh chóng, tạo ra những cơ hội, thuận lợi mới, chiến lược cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nhưng cũng có nhiều thách thức. Để xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, đòi hỏi Đảng ta phải đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, lãnh đạo tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

Từ khóa: kỷ nguyên mới; thời  cơ; thách thức; vươn mình,…

======================

MỞ ĐẦU

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm trong các bài viết, bài phát biểu quan trọng gần đây đã đề cập đến kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của Tổng Bí thư Tô Lâm đã được Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khẳng định là một chủ trương, định hướng mới, có tầm chiến lược phát triển đất nước, có ý nghĩa chính trị to lớn, cần được đưa vào Văn kiện Đại hội XIV, quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Đây là lời hiệu triệu, thúc giục tinh thần hành động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG:

1. Tiến vào kỷ nguyên mới là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại

Theo nghĩa chung nhất, “kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường"[1].

Dưới góc độ chính trị - xã hội, kỷ nguyên được đánh dấu bởi một sự kiện lớn, mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của một đất nước, một dân tộc. Ngày 19/8/1945 được ghi vào lịch sử như một ngày mở đầu kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử, một Nhà nước công nông ra đời ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ.

Tháng 12/1986, từ Đại hội VI, đất nước ta bước vào kỷ nguyên đổi mới, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật"[2]. Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay"[3]. Đất nước ta đã hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ của việc chuẩn bị những tiền đề cho dân tộc bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Như vậy, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc có thể hiểu là “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu"[4], “đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao"[5].

Thời điểm bắt đầu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc “là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh"[6]. Theo đó, kỷ nguyên mới là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải vươn lên mãnh liệt, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới, xác lập vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tạo nền tảng cho bước phát triển đột phá kế tiếp.

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là bước phát triển tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; là sự kế thừa truyền thống dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh; là sự đòi hỏi khách quan từ bên ngoài và nhu cầu nội tại từ bên trong, đáp ứng được nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam.

2. Những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

2.1. Về thời cơ, thuận lợi

Trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Việt Nam có những thời cơ, thuận lợi để tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ nhất, qua 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; đã tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Đây là niềm tự hào, là động lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đời sống nhân dân cả về vật chất, tinh thần được cải thiện. Năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2024 đạt khoảng 4.700 USD/năm[7]. Kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Năm 2020, 2021, 2022 mặc dù kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới (với tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91%; năm 2021 đạt 2,58%; năm 2022 đạt 8,02%)[8]; năm 2023 đạt 5,05%; năm 2024 đạt 7,09%. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2024 đã đạt khoảng 476,3 tỷ USD[9].

Sau nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù hợp với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp, ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thông thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hằng năm ở mức cao hàng đầu các quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, hơn 100 triệu người với mức thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao... Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

Thứ hai, lợi thế từ vị trí địa - chiến lược, địa kinh tế.

Việt Nam nằm trên tuyến đường biển huyết mạch của thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông. Việt Nam cũng nằm trên hệ thống kết nối đường bộ của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Hơn 90% lượng vận tải thương mại thế giới thực hiện bằng đường biển thì có 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông[10]. Việt Nam cũng ở cạnh Trung Quốc, gần với Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia có tiềm lực kinh tế, thị trường lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ mạnh,... tạo cơ hội lớn cho Việt Nam mở rộng thị trường, xuất khẩu sản phẩm. Với vị trí địa chiến lược như trên, Việt Nam luôn có ý nghĩa chiến lược và được sự quan tâm của các nước, tạo lợi thế để Việt Nam phát huy thế mạnh, tiềm lực của mình, thu hút được nhiều sự quan tâm, đầu tư của các nước, đặc biệt là các nước lớn. Về vị trí địa - kinh tế, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á - khu vực có nhiều tiềm năng, động lực phát triển kinh tế và là khu vực phát triển nhanh, năng động nhất trên thế giới. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, Việt Nam đang và sẽ trở thành điểm đến trong thu hút vốn đầu tư trên thế giới.

Thứ ba, lợi thế từ quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động, tạo điều kiện để học hỏi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, thu hút nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là tiếp thu tri thức để phát triển nền kinh tế, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP thế giới, tham gia hơn 500 hiệp định thương mại song phương và đa phương (trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do - FTA)[11]... Việc hội nhập, sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới tạo ra cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, thu hút mạnh mẽ FDI và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường của các nước đối tác...

Thứ tư, lợi thế từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư là sự hội tụ của công nghệ mới xuất hiện dựa trên nền tảng kết nối và công nghệ số, kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Cuộc cách mạng này tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn, giúp nền kinh tế hiệu quả, thông minh và sử dụng nguồn lực tiết kiệm hơn. Việt Nam là quốc gia đi sau trong cuộc Cách mạng công nghiệp trước 4.0 nhưng đi cùng với thế giới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư. Việt Nam cũng có lợi thế là đã quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia, chuyển đổi số. Việt Nam có tiềm năng về nhân lực công nghệ số. Do đó, Việt Nam có thể đi thẳng vào công nghiệp 4.0 mà mất ít chi phí chuyển đổi. Đặc biệt, nếu tận dụng cuộc cách mạng này, Việt Nam có thể phát triển bứt phá, nhảy vọt, rút ngắn, đi thẳng vào hiện đại, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến khác.

Thứ năm, lợi thế từ cơ cấu dân số “vàng" và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu.

Việt Nam đã bước vào giai đoạn cơ cấu dân số “vàng" từ năm 2006, với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn, tỷ lệ người phụ thuộc thấp. Với khoảng 53 triệu người trong độ tuổi lao động, mỗi năm lại được bổ sung 1,5 triệu người nữa thì đây thực sự là tiền đề để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, lực lượng lao động tăng lên đồng nghĩa với việc năng suất lao động và khối lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên, tài sản xã hội và gia đình được bảo đảm. Dân số nhóm tuổi từ 0-15 tuổi giảm hơn một nửa trong 30 năm qua cũng đã tạo điều kiện tốt hơn cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng, khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giảm bớt chi phí về y tế và an sinh xã hội. Bên cạnh đó, Việt Nam đang đứng trước thời cơ do tầng lớp trung lưu tăng nhanh. Năm 2000, chưa đầy 10% dân số Việt Nam nằm trong tầng lớp trung lưu; nhưng đến nay con số này đã tăng lên 40%. Đến năm 2030, dự kiến con số này có thể đạt gần 70%[12]. Sự gia tăng tầng lớp trung lưu làm thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, nhất là những hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, an toàn.

Thứ sáu, thời cơ từ truyền thống, tiềm năng văn hóa của dân tộc, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước.

Thực tiễn thế giới đang và sẽ ngày càng khẳng định rằng, sự thịnh vượng của một quốc gia không chỉ tùy thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, vào tiền vốn, mà tùy thuộc rất lớn vào nguồn lực văn hóa - con người, truyền thống dân tộc: trí tuệ, ý chí, nghị lực, đaọ đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sáng tạo của cá nhân, cộng đồng và dân tộc.

Dân tộc Việt Nam với truyền thống văn hóa qua hơn 4.000 năm lịch sử đã góp phần hình thành những đặc tính cơ bản của con người Việt Nam (yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo), tạo lập ý chí tự lực tự cường của mỗi cá nhân và toàn dân tộc để vượt qua mọi chông gai, thử thách trong công cuộc dựng nước, giữ nước và kiến thiết, phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc kết một bài học của cách mạng Việt Nam, đó là “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại"[13]. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước"[14]. Nếu như trong những thời kỳ trước, tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do, thì trong thời đại ngày nay, trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tự lực, tự cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

2.2. Về khó khăn, thách thức

Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức đan xen.

Thứ nhất, sự mơ hồ về nhận thức, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước hòng phủ nhận kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hiện nay, trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với quyết tâm chính trị cao, thì còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, Nhân dân có tư tưởng hoài nghi vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Gần đây, một số cán bộ, đảng viên, nhân dân tỏ ra hoài nghi, mất niềm tin khi cho rằng kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là “nóng vội", “không có căn cứ xác thực để thực hiện", hoặc “không rõ ràng", “khó hiểu". Một số khác lại có tư tưởng, tâm lý chủ quan, thoả mãn, bằng lòng với những kết quả đạt được, hoặc tư tưởng, tâm lý tự ty, thiếu tự tin, thiếu ý chí quyết tâm, thiếu khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Về vấn đề này, Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng"[15]. Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII) tiếp tục khẳng định: “Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến", “tự chuyển hóa"…".

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đang đẩy mạnh thực hiện “Diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng đưa ra những quan điểm trái ngược, có tính ngụy biện nhằm tạo sự mơ hồ, dao động về lập trường tư tưởng, nhận thức của người dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Tinh vi hơn, dưới chiêu bài “hội luận", đóng góp ý kiến, chúng tung ra quan điểm khác biệt, trái chiều, giả danh “dân chủ", “khoa học" để gây nhiễu… Từ đó, chúng xuyên tạc, đả phá, tạo ra nhận thức sai trái, lệch lạc về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam cũng như hướng lái, tác động hòng làm suy giảm niềm tin, ý chí của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những định hướng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của người đứng đầu Đảng ta về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây là âm mưu nguy hiểm trong bối cảnh đất nước ta bước sang năm 2025 - năm cuối trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, giai đoạn “tăng tốc về đích" cần tập trung mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực để hoàn thành những mục tiêu đề ra. Những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch nếu không được ngăn ngừa sẽ tác động đến nhận thức, tư tưởng, ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân nên cần phải nhận diện và có những luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục.

Thứ hai, thách thức từ địa chính trị

Đặc điểm của môi trường thế giới hiện nay và nhiều năm tới là tính bất định, khó lường tăng lên; bất ổn, biến động, khủng hoảng, xung đột cục bộ có thể sẽ diễn ra thường xuyên hơn. Việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển khó khăn hơn đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cạnh tranh chiến lược nước lớn sẽ là mặt chủ đạo trong quan hệ quốc tế, không loại trừ khả năng các nước lớn tìm cách dàn xếp, thỏa hiệp về một số vấn đề khu vực.

Xu hướng chính trị cường quyền, tư duy sức mạnh cứng, can thiệp áp đặt, sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực, hành xử đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế có thể gia tăng. Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa các cường quốc, Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực giữ cân bằng quan hệ giữa các nước lớn, các đối tác thương mại và đối tác chiến lược quan trọng, đặt ra yêu cầu cao hơn về bản lĩnh, sự tỉnh táo, khéo léo của các nước.

Thách thức an ninh biên giới phía Tây Nam vẫn sẽ thường trực, thậm chí có mặt phức tạp hơn trước. Thách thức từ tranh chấp chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông với các nước lớn và các nước trong khu vực tiềm ẩn các nguy cơ xung đột. Các hành động quân sự hóa và khai thác tài nguyên trái phép trên Biển Đông gây áp lực lớn đối với an ninh và chủ quyền của Việt Nam. Trong ASEAN, Việt Nam cần duy trì vai trò trung tâm trong tổ chức này để bảo vệ lợi ích quốc gia và phát triển đất nước.

Thứ ba, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào bẫy thu nhập trung bình

Giai đoạn đổi mới vừa qua, tăng trưởng mỗi một thập niên lại suy giảm so với thập niên trước. Trong 15 năm trở lại đây, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ tăng 1.600 USD, trong khi Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc tăng lần lượt là 3.600 USD, 6.500 USD và 16.000 USD. Xét về quy mô, tổng GDP của Việt Nam chỉ tăng 160 tỷ USD, trong khi Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc tăng tương ứng là 270, 200, 700 và 850 tỷ USD[16]. Điều này cho thấy, mặc dù GDP tăng 6 - 7%, nhưng số tuyệt đối này rất nhỏ và khoảng cách của Việt Nam so với các nước ngày càng xa.

Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam chất lượng tăng trưởng thấp, năng lực cạnh tranh yếu, nguồn lực, động lực của giai đoạn trước đang cạn dần. Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông; chuyển dịch sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn chậm. Bên cạnh đó, tăng trưởng năng suất trên đà giảm xuống. Năng suất lao động của Việt Nam thấp so với các nước Đông Nam Á. Năng suất lao động trong khu vực nhà nước thấp hơn nhiều khu vực khác, trong khi năng suất lao động trong khu vực kinh tế tư nhân còn thấp hơn... Đây sẽ là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam khi bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ tư, nguy cơ lệ thuộc vào bên ngoài và mất độc lập, tự chủ về kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế

Những năm tới, khi các cam kết quốc tế có hiệu lực, thực hiện đầy đủ việc mở cửa nền kinh tế, Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới. Các tác động tiêu cực từ bên ngoài gồm khủng hoảng kinh tế; giá dầu, lạm phát cao, dịch chuyển dòng vốn đầu tư,... đối với kinh tế Việt Nam cũng sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các chủ thể, doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào nền kinh tế, chiếm lĩnh, thao túng thị trường trong nước, làm phá sản những doanh nghiệp trong nước để độc quyền, làm cho nền kinh tế trong nước bị phụ thuộc, bị điều khiển bởi các chủ thể nước ngoài, đặc biệt là các nước lớn, làm giảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, khi bị phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp Việt Nam bị sức ép cạnh tranh, dễ bị thua thiệt, bị thâu tóm. Việc gia tăng các chủ thể đầu tư nước ngoài cũng có thể gây ra nguy cơ về chính trị, xã hội, ô nhiễm môi trường... Hội nhập quốc tế làm cho việc quản lý, kiểm soát nền kinh tế và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế khó khăn, phức tạp hơn; làm mất quyền chủ động trong xây dựng, ban hành pháp luật, chính sách, bị phụ thuộc vào các thông lệ, điều ước quốc tế đã ký kết và tạo ra sự khó kiểm soát về thông tin kinh tế, gây nguy cơ đe dọa đến độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Thứ năm, thách thức đối với việc bắt kịp và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư diễn ra trên rất nhiều bình diện với trình độ rất cao, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế. Để nắm bắt được cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu, đòi hỏi phải đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,... việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư một số nội dung còn chưa hình thành, còn nhiều bất cập; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. chưa đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, theo kịp tốc độ phát triển của cuộc cách mạng này không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng của Việt Nam. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư cũng gây ra những thách thức do việc phải tái cơ cấu nền kinh tế trên diện rộng, làm giảm mạnh lợi thế lao động giá rẻ, ảnh hưởng đến việc làm của nhân viên trong các ngành, như ngân hàng, may mặc, vận tải,... do ứng dụng công nghệ số. Sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và nhở ở Việt Nam, doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình truyền thống càng thêm khốc liệt do sự phát triển của các công ty công nghệ mới nổi, các công ty công nghệ siêu nhỏ...

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, sự phát triển của công nghệ số, xã hội số, văn hóa số,... tạo ra thách thức mới trong quản lý phát triển xã hội. Trong những thập niên gần đây, bất bình đẳng về thu nhập đã có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư lại càng làm khuyếch đại thêm xu hướng này do nhờ có ý tưởng liên quan đến công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp, tỷ phú công nghệ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó nhóm lao động giản đơn, ít kỹ năng bị mất việc làm, giảm thu nhập do dễ bị thay thế bởi người máy, bởi tự động hóa, ứng dụng công nghệ số, từ đó dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng, làm chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các nhóm trong xã hội.

3. Trách nhiệm của Đảng trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng ta gánh trên vai sứ mệnh vinh quang, trọng trách nặng nề. Để đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, “sánh vai với các cường quốc Năm châu", “góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới", Đảng cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, thống nhất tư tưởng và nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; tích cực đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng, phản động, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Bước vào kỷ nguyên mới, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, sự thống nhất tư tưởng và nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong cả hệ thống chính trị là điều kiện tiên quyết. Đó là yếu tố bảo đảm sự đồng lòng, đồng hành và đồng tâm giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi tư tưởng và nhận thức của mỗi cá nhân hòa chung vào dòng chảy lớn của dân tộc, Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục vươn mình, khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới và hiện thực hóa khát vọng hùng cường.

Để thống nhất tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong cả hệ thống chính trị trong kỷ nguyên mới, trước hết, công tác tư tưởng phải tiếp tục khẳng định vai trò định hướng trong mọi lĩnh vực đời sống, từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến khoa học, giáo dục. Đảng cần đặt ra những mục tiêu rõ ràng, khả thi, giúp Nhân dân hiểu và thấm nhuần lý tưởng phát triển một Việt Nam hùng cường. Để làm được điều đó, công tác tuyên truyền phải đi vào chiều sâu, tránh sự khô cứng hay hình thức. Tư tưởng và nhận thức của Nhân dân cần được nuôi dưỡng từ các câu chuyện thực tế, thành tựu đã đạt được và những giá trị sống động của cuộc sống thường ngày, từ đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm chung tay xây dựng đất nước.

Công  tác giáo dục tư tưởng chính trị cần trở thành một phần cốt lõi trong hệ thống giáo dục quốc gia, không dừng lại ở việc phổ biến kiến thức mà phải hướng đến việc hình thành tư duy độc lập, sáng tạo và trách nhiệm xã hội. Một nền giáo dục chất lượng cao không chỉ cung cấp tri thức mà còn phải xây dựng lòng yêu nước và khát vọng cống hiến cho thế hệ trẻ. Trong kỷ nguyên mới, khi thông tin và tri thức trở thành vũ khí cạnh tranh toàn cầu, giáo dục tư tưởng phải không ngừng đổi mới, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, đồng thời mở rộng ra những lĩnh vực mới như chuyển đổi số và công nghệ hiện đại.

Mặt khác, cần chủ động trong việc xây dựng không gian tư tưởng tích cực, tạo điều kiện để nhân dân được tiếp cận thông tin chính xác, đầy đủ, đồng thời tăng cường khả năng phản biện trước các luồng tư tưởng xấu độc. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan quản lý thông tin mà còn là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, đặc biệt là các cán bộ, đảng viên, những người đóng vai trò đầu tàu trong việc định hướng và lan tỏa những giá trị đúng đắn. Quan trọng nhất, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phải dựa trên nguyên tắc “dân là gốc, dân là trung tâm", Nhân dân là nguồn gốc của sức mạnh dân tộc, cũng là chủ thể thụ hưởng thành quả của mọi sự phát triển. Khi người dân được tôn trọng, lắng nghe và tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, sự đồng thuận và thống nhất sẽ trở thành một kết quả tự nhiên.

Hai là, xây dựng Đảng tiên phong về lý luận.

Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam"[17]. Điều lệ của Đảng quy định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Trên nền tảng đó, Đảng ta luôn luôn có đủ năng lực tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, sáng tạo ra hệ thống quan điểm lý luận đặc sắc, độc đáo về cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng CNXH ở một nước xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến vĩ đại và đổi mới thành công đất nước. Nhờ thế mà ngày nay nước ta có cơ đồ vững mạnh chưa từng có, với tiềm lực và vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao.

Trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trên nền tảng của cách mạng công nghiệp mới (4.0 đang chuyển sang 5.0), để tiếp tục làm tròn trọng trách  dân tộc giao phó, Đảng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh thêm nền tảng tư tưởng lý luận của mình để bảo đảm năng lực tiên phong, năng lực dẫn đường, lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.

Ba là,  nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, tầm nhìn chiến lược, định hướng phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Trước hết, Đảng phải nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Chủ trương, đường lối đúng đắn là phải phản ánh được quy luật vận động của thực tiễn chính trị đất nước, thể hiện được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Để thực hiện được điều đó phải quy tụ, thu hút được sự đóng góp trí tuệ của toàn thể nhân dân Việt Nam cả ở trong và ngoài nước, của các cơ quan nghiên cứu khoa học, đội ngũ các nhà khoa học lý luận và hoạt động thực tiễn, phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận. Trong lãnh đạo Nhà nước phải thật sự dân chủ, khoa học, không bao biện, lấn sân, làm thay Nhà nước; đồng thời, kiên quyết chống tình trạng lạm quyền, làm thay Nhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong toàn xã hội. Kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm kỷ luật phát ngôn.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng, của hệ thống chính trị tinh gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

Sắp xếp tổ chức, bộ máy, biên chế cơ quan Đảng; điều chỉnh, bổ sung và quy định cụ thể, hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của mỗi tổ chức; tăng cường tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp. Tổ chức, bộ máy của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn là nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp trên cơ sở phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó có sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát lẫn nhau giữa cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Do đó, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là đòi hỏi bức thiết của tình hình thực tiễn hiện nay; được cán bộ, đảng viên và nhân dân mong chờ, đón nhận với sự ủng hộ mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, phong cách và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược cần phải bảo đảm đủ tiêu chuẩn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo đức cách mạng, đạo đức và văn hóa công vụ, có lối sống trong sạch, giản dị, tiêu biểu về trí tuệ, có năng lực chỉ đạo thực tiễn, có uy tín trong Đảng và trong Nhân dân, thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng được nâng cao, việc tổ chức thực hiện, đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống sẽ có hiệu quả thiết thực, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Lựa chọn được những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy tín tốt là vấn đề hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Kiên quyết không để lọt những cán bộ chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, thiếu tôn trọng dân, xa dân, quan liêu, hách dịch, độc đoán, gia trưởng vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến", “tự chuyển hóa", giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Đồng thời, quan tâm bồi dưỡng, cất nhắc đề bạt và bảo vệ những cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung.

KẾT LUẬN

Nhìn lại lịch sử Cách mạng Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng đến nay cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, bằng sự khơi dậy ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, bằng việc huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những kỳ tích vươn mình, biến điều tưởng như không thể trở thành có thể.

Thế giới ngày nay vừa khâm phục Việt Nam Anh hùng trong chiến tranh chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới; vừa trân trọng Việt Nam đổi mới thành công, đem lại cho quốc gia dân tộc nhiều bước tiến vượt bậc, trở thành dẫn chứng sinh động cho các quốc gia đang phát triển vươn lên những tầm cao mới.

Phía trước có nhiều thuận lợi, cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đan xen, nhưng với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, với thế và lực của đất nước như ngày nay, đây chính là thời điểm chín muồi để chúng ta vững tâm, vững bước và vững tin tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc, cất cánh, vươn lên vì một Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển toàn diện, hội nhập thành công, tiến cùng thời đại./.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, Phần I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.15.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.66.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.112

4.  Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011. tr. 289.

5. Tô Lâm, Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 1.050, tháng 11/2024, tr.3.

6. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.34.

7.  Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2023, tr. 34

7. https://hdll.vn/vi/tin-tuc/noi-dung-chuyen-de-cua-tong-bi-thu- to-lam-ve-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.html.

8. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va- nam-2022/

9. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024

10. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/09/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-va-9- thang-nam-2023/

11. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024/

12.  https://tcnn.vn/news/detail/41591/Cong-tac-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-Viet-Namtrong-tinh-hinh-moi.html

13.  https://special.nhandan.vn/nhung-thoi-co-thach-thuc-voi-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/index.html

14. https://dttc.sggp.org.vn/muon-phat-trien-phai-nhin-ra-the-gioi-post118745.html

 



[1] Tô Lâm, Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 1.050, tháng 11/2024, tr.3.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, Phần I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2019, tr.15.

[3] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.34.

[4],5,7 Tô Lâm, Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 1.050, tháng 11/2024, tr.3.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.112

 

[7] https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va- nam-2022/

[8] https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/09/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-va-9- thang-nam-2023/

[9] https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024/

[10] https://tcnn.vn/news/detail/41591/Cong-tac-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-Viet-Namtrong-tinh-hinh-moi.html

[11] Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam", Nxb CTQGST, 2023, tr. 34

[12] https://special.nhandan.vn/nhung-thoi-co-thach-thuc-voi-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/index.html

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.66.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr.110,

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQGST, Hà Nội, Tập II, tr.168.

[16] https://dttc.sggp.org.vn/muon-phat-trien-phai-nhin-ra-the-gioi-post118745.html

[17] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011. tr. 289.​



Thiếu tướng, PGS, TS Đỗ Hoàng Ngân Phó Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân 2

Các tin khác

Liên kết webiste

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐỒNG ​NAI​
28, Vũ Hồng Phô, Phường Tam Hiệp, tỉnh Đồng Nai​
​ Điện thoại: 02513. 808. 220 - Email: banb​ientaptctdn@gmail.com