Tóm tắt: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam 95 năm qua do Đảng lãnh đạo đã chứng minh đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nhân tố hết sức cần thiết, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng. Đồng thời, là động lực quan trọng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc từ Đại hội lần thứ XIV một cách chủ động, tự tin.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
1. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, góp phần tạo nên những bước ngoặt vĩ đại của dân tộc Việt Nam
Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng và thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện các mục tiêu cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là sản phẩm của sự kết hợp nhiều yếu tố, nhất là phong trào công nhân, phong trào yêu nước của Việt Nam và giá trị tiến bộ của nhân loại - chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930, Luận cương chính trị tháng 10-1930 và các văn kiện khác thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) đã chỉ rõ: Nhân dân Việt Nam đoàn kết với giai cấp công nhân Pháp, đoàn kết với phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, phải đoàn kết, bênh vực Liên bang Xôviết là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Đảng chủ trương thực hiện đoàn kết quốc tế với tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới để có điều kiện “xây dựng nền thái bình muôn thủa".
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là thắng lợi của tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, được tiếp sức bởi thời cơ “nghìn năm có một" khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Tháng 9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ đường lối đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai"[1]. Thêm bạn, bớt thù, hòa hiếu thực lòng, không gây thù oán với ai, đó là đường lối đối ngoại xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Năm 1950, việc thiết lập quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa đã đưa đến sự công nhận quốc tế đầu tiên đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, giúp Việt Nam phá vỡ thế “chiến đấu trong vòng vây"[2]. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội lần thứ II (1951) thông qua nêu rõ chính sách ngoại giao của Việt Nam là: “Đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác và tích cực ủng hộ phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa. Mở rộng ngoại giao nhân dân; giao thiệp thân thiện với chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên"[3]. Trong những năm đầu kháng chiến, bước đầu tranh thủ tiếng nói và sự ủng hộ của nhân dân, bạn bè thế giới. Bạn bè quốc tế, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, đã dành cho Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn về tinh thần, vật chất, đào tạo cán bộ...
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã minh chứng cho lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" năm 1954 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là kết quả của lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu bất khuất cho độc lập, tự do của quân và dân Việt Nam, đường lối chiến tranh nhân dân toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp với sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình và ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất quan trọng cho cách mạng Việt Nam thắng lợi"[4]. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả của sức mạnh dân tộc; đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; lập trường chính nghĩa, thế tất thắng, sự can trường, bất khuất, đỉnh cao của nghệ thuật “đánh - đàm". Thành quả của hơn 20 năm kháng chiến còn thể hiện sức mạnh thời đại, đó là sự phát triển lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa với những thành tựu phát triển quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục; sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ bằng nhiều hình thức của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; sự ủng hộ lớn lao của nhân dân tiến bộ tại các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là nhân dân Mỹ, và mọi lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, tạo thành mặt trận thống nhất rộng khắp của nhân dân thế giới phản đối chiến tranh, đoàn kết và ủng hộ Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết của toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ cả thế giới, chúng ta nhất định thắng!"[5].
Đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đề ra chính sách đối ngoại: “Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình, làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ"[6]; “Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi... góp phần tích cực vào sự nghiệp giữ gìn và củng cố hòa bình trên thế giới"[7].
Trong những năm đổi mới, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời, phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới chính sách đối ngoại. Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau"[8] nhằm phấn đấu tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"[9].
Trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Liên Xô, Đông Âu khủng hoảng trầm trọng, Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về đối ngoại, Đại hội đã phát triển chủ trương “thêm bạn, bớt thù", thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở và tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"[10]. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bước vào Thiên niên kỷ mới, Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"[11], nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. “Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"[12]. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng chủ trương mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực, bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; phản đối mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"[13]. Trong khi thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập, chú trọng quan hệ với các nước lớn, với nước láng giềng, Đảng cũng hết sức quan tâm giữ gìn phát triển các mối quan hệ truyền thống và quan hệ với Phong trào Không liên kết. Phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự của mỗi dân tộc là điều kiện cho sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới.
Bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) phát triển đường lối đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược.
Tổng kết 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) đề ra phương hướng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"[15].
Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người quan trọng nhất"[16].
Như vậy, mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã đưa cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hòa nhập trào lưu giải phóng của nhân loại, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Việt Nam là một bộ phận của cộng đồng các nước và các dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Phát huy những thành công đã đạt được trong tiến trình cách mạng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong quan hệ đối ngoại luôn bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Lợi ích của dân tộc ta hiện nay là phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố ổn định chính trị, giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lợi ích đó của dân tộc Việt Nam không mâu thuẫn mà gắn liền với lợi ích hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các nước trên thế giới.
2. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - Ý nghĩa đối với sự lãnh đạo của Đảng khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Sau 95 năm tiến hành công cuộc giải phóng, xây dựng đất nước, dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra những bước phát triển đột phá kỳ diệu, đưa Việt Nam bước vào những kỷ nguyên vẻ vang: Kỷ nguyên độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới (1975 - 2025) và Việt Nam chuẩn bị bước vào kỷ nguyên thứ ba - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu bằng sự kiện trọng đại, Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Ba kỷ nguyên của dân tộc đã và sẽ được tạo lập, là sự tiếp nối hợp quy luật của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện thành công khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 khóa XIII (18 đến 20-9-2024), Đảng ta thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đây là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng (2030), tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập Nước (2045). Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Qua gần 40 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường: Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. An ninh, an toàn, trật tự xã hội, môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước được bảo đảm. Sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, sức mạnh quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường... Sức mạnh tổng hợp cho phát triển đất nước được nâng lên, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào thành công của quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đến cuối năm 2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bao gồm tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) và 17 nước trong Nhóm G-20[17]... Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia, trong đó có khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế; quan hệ với đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng ngày càng được mở rộng, củng cố. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.
Có thể khẳng định chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam là chủ trương đúng đắn, phù hợp, vì vậy đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của dân tộc qua mỗi giai đoạn lịch sử. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sự nhận thức đúng đắn và tiếp tục lãnh đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng mang ý nghĩa giá trị sâu sắc ở mọi khía cạnh:
Một là: Đảng ta luôn khẳng định và quán triệt đầy đủ tầm quan trọng của việc phát huy kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới. Sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam hiện nay là tổng hòa nhiều yếu tố. Đó là sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam, được biểu hiện qua truyền thống văn hóa, lịch sử, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần yêu nước, hòa hiếu, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cùng với vị trí địa - chiến lược quan trọng. Sức mạnh đó còn là đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, những thành quả to lớn, quan trọng trong bảo đảm quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế qua gần 40 năm đổi mới, cũng như kinh nghiệm, bài học mà Việt Nam đã tích lũy được qua các giai đoạn cách mạng; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân thế giới. Thế, lực và uy tín đất nước trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định.
Hai là: Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, xác định nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, đồng thời kiên định về mục tiêu, nguyên tắc, linh hoạt về sách lược; hết sức tranh thủ, phát huy cao nhất thế và lực mới của đất nước, sự coi trọng của các nước đối với vị trí địa chiến lược và tiềm lực, vị thế quốc tế của Việt Nam. Nhằm chuẩn bị đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, ngày 22-12-2024 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ do Cách mạng Công nghiệp 4.0. Nghị quyết đã xác định vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tầm nhìn này phù hợp với xu hướng toàn cầu, khi các quốc gia tiên tiến đều coi đây là yếu tố quyết định để vượt qua thách thức và đạt được sự phát triển bền vững.
Ba là: Đảng lãnh đạo, không ngừng đưa quan hệ của nước ta với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác quan trọng ngày càng đi vào chiều sâu, tạo thêm sự gắn kết, đan xen lợi ích chiến lược. Coi trọng quan hệ truyền thống hữu nghị, hợp tác gần gũi, tình nghĩa, thủy chung với các nước bạn bè truyền thống nhằm củng cố tin cậy, làm sâu sắc quan hệ trên mọi mặt. Tích cực tham gia các cơ chế đa phương, chủ trì hoặc đề xuất sáng kiến mới, góp phần tạo cơ hội tăng cường hợp tác song phương với các nước, mở rộng hợp tác song phương trên những vấn đề đa phương. Đồng thời, phát huy tổng thể các kênh đối ngoại để kịp thời nắm bắt, tận dụng các xu hướng phát triển tích cực của thế giới cho bảo đảm an ninh, thúc đẩy phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc trong công tác đối ngoại, tranh thủ sáng kiến, hỗ trợ của các nước, các xu hướng liên kết, hợp tác kinh tế quốc tế mới nhằm bảo đảm cục diện đối ngoại chiến lược ổn định, phát triển kinh tế. Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại trên cả ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; phát huy vai trò, thế mạnh đặc thù của từng trụ cột, chủ thể và lực lượng tham gia công tác đối ngoại trên tất cả lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ..., giúp Việt Nam tiếp cận, tận dụng hiệu quả thành tựu tiên tiến của thời đại.
Kết luận
Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới được Đảng ta xác định là Đại hội lần thứ XIV của Đảng (2026), thời điểm Việt Nam hoàn thành xuất sắc công cuộc đổi mới sau 40 năm lao động, sáng tạo bền bỉ và đạt được những thành tựu vĩ đại của toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế được nâng lên rõ rệt. Việt Nam đã và đang thể hiện rất rõ và rất tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam đã khởi xướng và tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới, đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo dân tộc Việt Nam thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vẫn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Kỷ nguyên mới với những mục tiêu lịch sử đòi hỏi khách quan phải phát huy đến mức cao nhất chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, tinh thần đấu tranh, lao động, chủ động, sáng tạo của nhân dân, của con người Việt Nam - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới của dân tộc./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, tập 14, tập 15, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2004.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 12, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, 2004.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1997.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII,VIII, IX, X), Nxb.Chính trị quốc gia, H.2010.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập I.
- Phạm Minh Sơn - Trần Mai Hương: “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" - Nhận thức và triển khai hành động, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 561 (11-2024).
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ 10 BCH Trung ương Đảng 9-2024.
- Bộ Chính trị, Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t.5, tr.256.
[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb. Quân đội nhân dân, H.2004.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, t.12, tr.441.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.14, tr. 467.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr. 132.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, t.37, tr.617-618.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, Tập 37, tr.619.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.105.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.99.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.147.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII,VIII, IX, X), Nxb.Chính trị quốc gia, H.2010, tr.94.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr.119-120.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII,VIII, IX, X), Nxb.Chính trị quốc gia, H.2010, tr.375.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.46.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.153.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, t.I, tr.110-111.
[17] Phạm Minh Sơn - Trần Mai Hương: “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" - Nhận thức và triển khai hành động, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 561 (11-2024), tr 3-9.