Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
"Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". (Hồ Chí Minh)
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC – 46 NĂM NHÌN LẠI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA HIỆN NAY

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có vị trí liền kề nhau, núi liền núi, sông liền sông với đường biên giới dài 1.400km chạy qua 6 tỉnh Cao Bằng, Quảng Ninh, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu nên từ lâu hai nước có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Năm 1950, Trung Quốc với tên gọi là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  – đây là cột mốc lịch sử quan trọng trong mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Việt – Trung, là cơ sở của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đó là thời kỳ Việt Nam đang căng mình chống lại hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, là thời điểm chúng ta nhận được sự hỗ trợ rất nhiều từ Trung Quốc. Từ viện trợ hàng hóa, vũ khí đến các hoạt động quân sự, đào tạo cán bộ... Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung Quốc vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam – Việt Nam là đồng minh thân thiết của Trung Quốc từ ngay sau khi cách mạng Trung Quốc thành công. Tuy nhiên, ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, với những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với Liên Xô mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Quốc bắt đầu gặp những thách thức, trở ngại. Và giai đoạn từ 1972 - 1988 là giai đoạn mối quan hệ giữa hai nước bị đẩy xuống mức thấp và hết sức căng thẳng. Trung Quốc đã vì lợi ích quốc gia dân tộc mình đã sẵn sàng chà đạp lợi ích của quốc gia dân tộc khác, đã ngang nhiên xâm phạm vô căn cứ lãnh thổ của nước ta bằng cuộc tấn công vào biên giới Việt Nam vào sáng ngày 17/02/1979. Điều này được thể hiện thông qua quá trình Trung Quốc thực hiện hành vi của mình tại biên giới với nhiều hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai. Trước tình thế đó, nhiều lần Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trao đổi thông tin và thể hiện sự phản đối với những hành vi đó của Trung Quốc.  Tuy nhiên, sau thời gian dài chuẩn bị, rạng sáng ngày 17/02/1979, Trung Quốc ồ ạt xua quân xâm lược tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam dọc biên giới 6 tỉnh của Việt Nam giáp Trung Quốc gây ra thương vong, tổn hại rất lớn cho nhân dân 6 tỉnh giáp biên giới Trung Quốc của Việt Nam bấy giờ. Trong cuộc chiến này, Trung Quốc đã huy động khoảng 60 vạn quân gồm 32 sư đoàn, 550 xa tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối mở cuộc tấn công nước ta từ Móng Cái đến Phong Thổ[1]. Dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, luôn tìm mọi cách, mọi cơ hội để cứu vãn hòa bình và không muốn diễn ra chiến tranh. Tuy nhiên, với hành động xâm lược của phía Trung Quốc, trước tình thế tổ quốc lâm nguy, nhân dân vô tội thiệt mạng, nền độc lập và chủ quyền bị đe doạ, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã quyết tâm, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc. Ngay tối ngày 17/02/1979, Chính phủ Việt Nam đã ra bản tuyên bố kêu gọi sự ủng hộ của thế giới yêu chuộng hòa bình. Ngày 04/3/1979, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước đứng lên cứu nước. Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng, lớp lớp thanh niên thậm chí cả bộ đội xuất ngũ đã viết đơn tòng quân lên đường để bảo vệ lãnh thổ quê hương. Và ngay trong chiều ngày 05/3/1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ nước ta, tuy nhiên, cuộc chiến vẫn kéo dài đến ngày 18/3/1979, Trung Quốc mới chính thức rút hết quân. Mặc dù thời gian cuộc chiến diễn ra không quá dài từ 17/02/1979-18/3/1979 nhưng hậu quả của cuộc tấn công của Trung Quốc vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam là vô cùng nặng nề.

Năm tháng đã dần xa nhưng những bài học kinh nghiệm được rút ra từ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc cách nay 46 năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị cho Đảng và nhân dân ta trong quá trình xây dựng, bảo vệ tổ quốc hiện nay nhất là khi chúng ta đã thống nhất và đã đang cũng như tiếp tục thực hiện mục tiêu bảo vệ đất nước từ sớm từ xa. Có thể khái quát những bài học kinh nghiệm đó là:

Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt, chủ trương nhất quán, đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Đây là mục tiêu, là lý tưởng, là động lực cho sự tồn tại, phát triển của Đảng, đất nước. Mục tiêu này, lý tưởng này, động lực này không tự nhiên mà có mà đó là kết quả của cả quá trình chọn lọc và lựa chọn của thời đại, dân tộc, nhân dân và Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc mặc dù chúng ta bất ngờ, chênh lệch về lực lượng lớn nhưng nhờ sự lãnh đạo của Đảng, sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân mà đã đẩy lùi được lực lượng Trung Quốc ra khỏi biên giới. Điều đó chỉ có thể lý giải bởi niềm tin và sự lựa chọn con đường đúng đắn về mục tiêu, con đường đang đi là chính xác, được nhân dân tin yêu, ủng hộ. Sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh bấy giờ khiến cho trong tình thế vô cùng khó khăn ấy nhưng lớp lớp thanh niên và bộ đội xuất ngũ sẵn sàng viết đơn và lên biên giới bảo vệ lãnh thổ quê hương sau lời kêu gọi của Đảng. Là một trong những lý do khiến ngay sau ngày 04/3/1979 Trung ương Đảng và Bộ Chính trị phát lời kêu gọi thì ngay 05/3/1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Sự tin tưởng và đi theo sợi chỉ đỏ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo tuyệt đối duy nhất của Đảng đã phát huy thể hiện qua thắng lợi của 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, là thắng lợi của 2 cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới và sự nghiêp đổi mới, thoát khỏi khủng hoảng về xã hội – kinh tế và hội nhập quốc tế và ngày càng phát triển vững mạnh như ngày nay của đất nước. Điều này trở thành bài học lớn cho Đảng trong lãnh đạo bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa hiện nay nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay với những diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, khó đoán định, với nhiều bất ổn, thời cơ và thách thức luôn đi cùng nếu biết tận dụng thời cơ sẽ nhanh chóng cất cánh, ngược lại sẽ là mối nguy cho độc lập của dân tộc, chủ quyền của quốc gia và sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, Ðảng phải không ngừng đổi mới mọi mặt, đổi mới nhưng không đổi màu, đổi mới về cách nghĩ, cách làm để phù hợp với thời đại nhưng luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường đã lựa chọn từ đầu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ minh mẫn, có tầm nhìn xa, rộng,… phát huy bài học của lãnh tụ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế về sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quan trọng hàng đầu, không chia sẻ quyền lực trong mọi tình huống.

Hai là, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính

Việt Nam là một quốc gia có vị thế địa chiến lược rất đặc biệt, là đối tượng nhắm tới của nhiều quốc gia lớn trên thế giới. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử nước nhà khi dựng nước luôn luôn đi liền với giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử của cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đúc rút từ những bài học của cha ông đã để lại phải luôn ghi nhớ phải lấy sức ta để giải phóng cho ta, phải tự lực cánh sinh và muốn người khác giúp mình thì trước hết mình phải tự cứu mình,… nên trong suốt thế kỷ XX nhiều biến động khi phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn những kẻ thù tưởng chừng như không thể nào đánh bại được nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những điều tưởng chừng như không thể, làm rung động cả thế giới bấy giờ. Điều này có được là nhờ tinh thần tự lực, tự cường của chúng ta. Và ngay trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc đã chứng minh cho điều này, trong cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ không cân sức này giữa ta và phía bên kia biên giới nếu không có sự tự lực, tự cường thì chắc hẳn với sự chênh lệch về quân số, vũ khí, sự chuẩn bị đầy đủ các mặt từ quân sự đến ngoại giao thậm chí là chính trị của đối thủ chúng ta sẽ khó có thể giành thắng lợi như vậy. Trung Quốc sau mâu thuẫn với Liên Xô đã tìm cách lôi kéo Việt Nam, lợi dụng con bài viện trợ để tìm cách chi phối Việt Nam, kéo gần khoảng cách với Mỹ, thậm chí ép Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ để đạt được mục tiêu chiến lược của Trung Quốc với Mỹ, sau dần cuối cùng cắt viện trợ đối với nước ta, gây ra những xung đột biên giới, tạo những ảnh hưởng trong nước, thậm chí là khu vực và quốc tế đối với Việt Nam và đỉnh cao là tấn công Việt Nam vào tháng 02/1979. Từ một quốc gia hỗ trợ Việt Nam nhiệt tình trong cuộc kháng chiến chống Pháp và nửa đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (mặc dù có những toan tính riêng), người đồng đội, đồng chí thân thiết trong phe xã hội chủ nghĩa nhưng cuối cùng lại rơi vào trạng thái hết sức căng thẳng, xung đột nếu không có sự chủ động, tự lực, tự cường, quyết tâm, đoàn kết của quân và dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thì cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc sẽ không dễ giành thắng lợi đến vậy. Ngay cả Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mặc dù lên tiếng ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến này nhưng sự giúp đỡ về mặt quân sự, ngoai giao chưa thể hiện rõ. Điều này có thể lý giải bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan về thời gian cuộc chiến ngắn, những nhân tố chiến lược riêng của các nước,… vì vậy nếu chúng ta không chủ động, tự lực, tự cường thì kết quả đã không đạt được như vậy. Trong bối cảnh hiện nay, khi tình hình trong nước và thế giới có những biến đổi to lớn từng giờ, từng ngày, hàng loạt mối nguy từ truyền thống đến phi truyền thống như quân sự, thương mại, ngoại giao, công nghệ cao, … luôn đe dọa đến an ninh và độc lập của đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam trở thành một bộ phận của thế giới, không ngừng củng cố vị thế quốc tế hiện nay và đây là điều kiện quan trọng để đưa đất nước ngày càng bay cao, bay xa, phát triển ngày càng vững mạnh thì việc giữ vững độc lập, tự chủ là vô cùng quan trọng. Trong mọi hoàn cảnh, mọi chiến lược luôn luôn phải tỉnh táo, có sự tự chủ, tự cường, tự lập để giữ vững được mục tiêu, lý tưởng và đặc biệt là độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia cũng như chế độ chính trị. Muốn làm được điều đó, phải không ngừng tự nỗ lực hoàn thiện, nâng cao năng lực mọi mặt của dân tộc từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Đặc biệt phải có sự ổn định và chính trị và xã hội, tiềm năng và vươn mình mạnh mẽ về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng và an ninh, uy tín về ngoại giao. Đó là điều kiện cần và đủ để chúng ta có được sự tự chủ, tự lực, tự cường trong bối cảnh nhiều biến động ngày nay.

Ba là, luôn có sự chuẩn bị từ sớm trong mọi tình huống, đề cao cảnh giác với mọi đối tượng

Lịch sử dân tộc ta đã đúc rút ra bài học vô cùng quý giá này, nhân dân ta, đất nước ta luôn yêu chuộng hòa bình, muốn chung sống hòa hảo, thân tình với mọi quốc gia, dân tộc và nhân dân tất cả các nước trên thế giới nhưng thực tế lịch sử dân tộc đã cho thấy dù chúng ta muốn nhưng kẻ thù luôn tìm cách ngăn cản, luôn tìm cách chiếm đóng nước ta, đẩy nước ta và nhân dân ta vào con đường nô lệ bị bóc lột tàn bạo. Tới thế kỷ XX lịch sử chúng ta đối mặt với những kẻ thù lớn như Pháp, Mỹ và trước đó nữa là quân đồng minh. Nhờ sự hỗ trợ của “những người bạn" cùng với tinh thần, ý chí quật cường của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn, ý nghĩa. Nhưng chính trong các cuộc kháng chiến ấy và đặc biệt ngay từ sự kiện 2 cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam từ 1975 và phía Bắc 1979 đã để lại những bài học xương máu với những “đối tượng mới" và thậm chí với “những người bạn cũ" trở thành “đối tượng mới", trở thành kẻ xâm lược đất nước và đẩy tình thế mối quan hệ giữa hai nước thậm chí là khu vực và trạng thái căng thẳng, gay gắt. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp là sự kiện Hiệp định Gionevo, trong kháng chiến chống Mỹ là giai đoạn 1972-1975 khi tam giác mối quan hệ Trung – Mỹ - Xô tác động trực tiếp đến chiến lược cuộc kháng chiến của chúng ta. Sau đó là sự kiện quân Pon Pot tấn công biên giới Tây Nam và Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc, sự căng thẳng về ngoại giao phải gánh chịu tới từ chính chiến lược của “những người bạn cũ" của chúng ta. Điển hình ở sự kiện năm 1979 cuộc chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có sự chuẩn bị lâu dài cho việc tấn công Việt Nam từ vũ khí, ngoại giao, kinh tế, chính trị và hàng loạt các hành động khiêu khích. Tuy nhiên giai đoạn đầu vì thiếu cảnh giác nên chúng ta thiệt hại nặng nề về cả người và của dù sau đó với tinh thần chiến đấu cao, tư duy quân sự dày dặn chúng ta đã chiến thắng. Tuy vậy, đây vẫn là bài học xương máu, đau đớn cho Đảng và quân ta về việc không được lơ là, mất cảnh giác với mọi đối tượng dù là đã là bạn hay đang là bạn đi chăng nữa. Hiện nay, đất nước đổi mới toàn diện về mọi mặt và đang trên đà “cất cánh" chúng ta rất cần việc sớm đưa ra những chiến lược, sách lược về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế và quốc phòng – an ninh. Luôn có sự chuẩn bị trước cho mọi tình huống có thể xảy ra, nhận thức sâu sắc rằng bất cứ ai có âm mưu và hành động gây nguy hại đến ổn định đất nước, an ninh, chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc đều là đối tượng. Mặt khác những ai muốn hợp tác trên tinh thần cùng phát triển, tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam đều là đối tác và là cơ hội để chúng ta không ngừng phát triển mọi mặt, có sự chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cho sự phát triển bền vững của đất nước

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Lê Mậu Hãn, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, 1998

Trường Sơn, Biên giới phía Bắc 1979: 30 ngày không thể nào quên, 2015

2.     Tạp chí Nghiên cứu châu Á, số 5/2005

3.     Tài liệu phục vụ kỷ yếu hội thảo Chiến  tranh biên giới phía Bắc và kinh nghiệm quốc phòng cho Việt Nam, 2019

4.     http://Google.com

5.     http://tapchiqptd.vn

 



[1] Lê Mậu Hãn, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb giáo dục, 1998, tr.307​​​



Nguyễn Thị Hồng Gấm

Các tin khác

Liên kết webiste

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐỒNG NAI​
116 Tổ 16 KP2 P.Bình Đa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai
​ Điện thoại: 02513. 808. 220 - Email: banb​ientaptctdn@gmail.com