Tóm tắt: Trong di sản tinh thần vô giá để lại cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao trí tuệ của Nhân dân, nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc phải phát huy trí tuệ và sáng kiến của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Tại cuộc triển lãm ngành Hậu cần Quân đội ngày 1/4/1958, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi trong lưu bút triển lãm:“Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận!" Hay như trong bài nói nói chuyện tại “Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc" ngày 14/9/1959, Người tiếp tục chỉ dẫn:“Cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào nhân dân; trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận"[1]. Những khẳng định này không chỉ là lời nhắc nhở riêng dành cho cán bộ, chiến sĩ lúc bấy giờ mà còn là bài học vô cùng sâu sắc, mãi mãi vẹn nguyên giá trị dành cho hậu thế về ý thức yêu thương Nhân dân, tôn trọng Nhân dân và phải biết phát huy trí tuệ, sáng kiến, sức mạnh của Nhân dân trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng.
1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ và sáng kiến của quần chúng Nhân dân
Tiếp thu sâu sắc và vận dụng thấu đáo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò, vị trí của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn chủ trương dựa vào dân, khoan thư sức dân, tập hợp sức mạnh, trí tuệ, sáng kiến của quần chúng Nhân dân vào trong thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam.
Dù không diễn đạt thành văn bằng câu từ trực tiếp, nhưng điều cốt lõi mà Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy trước tiên chính là mối tương quan biện chứng giữa nguồn lực vật chất và nguồn lực trí tuệ. Hồ Chí Minh cho rằng tuy cả hai đều quan trọng, góp phần làm nên sự thành bại của cách mạng nhưng nguồn lực vật chất là hữu hạn, còn nguồn lực trí tuệ lại là vô biên. Vật chất có dồi dào, phong phú đến đâu cũng có định mức nhất định, khai thác rồi sẽ hết. Còn trí tuệ, khả năng sáng tạo, những phát minh, sáng kiến đến từ đầu óc của con người sẽ là vô tận vô cùng nếu như biết khai phóng và sử dụng hợp lý. Bởi thế, đối với Hồ Chí Minh trong vũ trụ mênh mông, con người là lực lượng có sức mạnh to lớn, là chủ thể quý giá nhất. Người khẳng định: “Trên bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân."[2] Đặt Nhân dân trong sự so sánh với cái vô cực, bao la của vũ trụ đất trời, điều đó cho thấy trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Nhân dân có vị trí lớn lao như thế nào. Từ quan điểm, triết lý đúng đắn này, trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nhất quán việc xác định và xây dựng lực lượng làm cách mạng là quần chúng Nhân dân. Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, mà còn là nhân tố thúc đẩy cách mạng phát triển. Người khẳng định: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển"[3]. Tất cả các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đều hợp thành lực lượng to lớn của cách mạng. Cách mạng muốn thành công đều phải khắc cốt ghi nhớ nguyên lý dựa vào sức mạnh, trí tuệ của dân: “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân."[4] Và thực tế cách mạng nước ta đã chứng minh, Nhân dân là lực lượng có tầm vóc quyết định, làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam: từ các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chống thực dân đế quốc xâm lược cho đến công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, cách mạng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức rõ và coi trọng trí tuệ và sáng kiến của quần chúng, Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của Nhân dân"[5]. Theo Người, quần chúng rất thông minh, mưu trí, sáng tạo, giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, nhanh chóng “mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"[6]. Trí tuệ của Nhân dân vừa là trí tuệ của những con người cụ thể lại vừa là trí tuệ của tập thể cộng đồng, là trí tuệ của những con người từ trong lao động, sản xuất, sinh hoạt, chiến đấu cho nên những phát minh, sáng kiến luôn có tính thực tế, cách giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng mà hiệu quả. Và như Bác đã nói, không phải chỉ những người “có tài giỏi đặc biệt mới có sáng kiến" mà thậm chí đôi khi có những việc chính những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi chưa thông, giải quyết không được, thì những con người bình thường từ trong Nhân dân lại có những sáng kiến rất mau lẹ mà hữu ích. Hồ Chí Minh quan niệm “Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, những điều kiện bình thường, rất phổ thông, rất thiết thực"[7]. Điều quan trọng hơn cả, muốn có phát minh, sáng kiến thì theo Hồ Chí Minh: “Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người[8]". Như thế, phát minh sáng kiến được tạo ra phải xuất phát từ mục đích, động cơ hết sức trong sáng là nghĩ đến lợi ích của chính quần chúng. Cách thức biện pháp đơn giản là chỉ cần siêng năng học hỏi, tiếp thu từ chính quần chúng, đầu óc phải chịu khó suy nghĩ và tích cực bắt tay vào việc mà làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Muốn “học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó"[9]. Như thế, phải siêng gặp gỡ, tiếp xúc thường xuyên với quần chúng Nhân dân, lắng nghe Nhân dân, thấu hiểu Nhân dân, biết cách chắt lọc những điều hữu ích, hữu dụng từ Nhân dân. Bởi lẽ “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân"[10]. Đây là quan điểm rất mới mẻ, độc đáo và sâu sắc của tư tưởng của Hồ Chí Minh về tinh thần cầu thị để học hỏi nếp nghĩ, cách làm từ tinh hoa trí tuệ của Nhân dân. Vì thế, từ rất sớm, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhắc nhở, phê bình một số cán bộ có biểu hiện tự cao tự đại, xem thường dân chúng. Người nói: “Có người thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng"[11]. Những người như vậy thì không thể làm lãnh đạo của Nhân dân. Nhân dân là người Thầy lớn của cán bộ, vì vậy phải luôn tin tưởng Nhân dân, đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào nhân dân; trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận"[12]. Theo Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, phải luôn tìm cách để phát huy nguồn lực trí tuệ trong nhân dân. Trong những năm đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng, Người đã viết một loạt bài như: “Về việc tiếp chuyện các đại biểu"; “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà"; “Nhân tài và kiến quốc", “Tìm người tài đức". …để kêu gọi người tài, tìm kiếm tài lực, phát huy trí tuệ trong Nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đãi trọng kẻ sĩ, chiêu mộ, quy tụ nhân tài từ trong Nhân dân luôn gắn liền với khoa học dùng người, có các cách thức, việc làm thiết thực để phát huy tài năng, trí tuệ của dân tộc. Đặc biệt, cán bộ phải có trách nhiệm quan tâm tới đời sống của Nhân dân, làm cho Nhân dân có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quần chúng Nhân dân phát huy trí tuệ, cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Ngay cả lúc sắp đi xa, điều khiến Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt nhất vẫn là “công việc đối với con người". Bác đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"[13]. Trong cuộc đời làm cách mạng, mối quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Một mặt, Hồ Chí Minh luôn đề cao trí tuệ, sức mạnh của quần chúng Nhân dân, nhưng mặt khác, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh rằng: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân"[14]. Đây chính là tư duy biện chứng rất triệt để của Hồ Chí Minh, thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh về lý tưởng, mục tiêu cách mạng suốt đời phụng sự Nhân dân của Người. Theo đó, phát huy mọi nguồn lực vốn có trong Nhân dân, trong đó phát huy trí tuệ của Nhân dân cũng chỉ để nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là phục vụ cho chính Nhân dân. Người luôn đặt dân lên vị thế hàng đầu nên trong tất cả mọi việc, trước hết và sau cùng đích hướng đến vẫn là vì lợi ích tốt đẹp của Nhân dân. Hồ Chí Minh thực sự là hiện thân của vị lãnh tụ suốt cả cuộc đời luôn một lòng vì đồng bào, vì dân tộc, yêu thương Nhân dân chân thành, cháy bỏng; luôn biết quý trọng và khai thác trí tuệ, sức mạnh của quần chúng Nhân dân, đặt nguồn lực trí tuệ của Nhân dân vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng. Đúng như chính Người đã khẳng định: “Tất cả những thắng lợi của dân tộc ta không phải là công lao riêng của Đảng ta, đó là công lao chung của toàn đồng bào trong cả nước, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào, thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân.[15]
2. Những bài học hiện nay
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ, sáng kiến của Nhân dân cho đến ngày hôm nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Xã hội càng phát triển, càng thấm thía hơn những lời chỉ dẫn quý báu của Bác. Thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta cần phải quan tâm làm tốt những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, từ lý luận lẫn thực tiễn lịch sử đều đã cho thấy, dù đất nước có ở giai đoạn nào, thời kỳ nào thì trí tuệ, sáng kiến của quần chúng Nhân dân vẫn là nguồn lực vô tận, là yếu tố tác động to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh tình hình mới này, sáng kiến, trí tuệ và năng lực sáng tạo của cán bộ đảng viên và Nhân dân là yếu tố có vai trò quan trọng thúc đẩy sự thành công của công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ mới. Trong khi nguồn lực tài nguyên thiên nhiên khoáng sản ngày càng khan hiếm, thậm chí đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt, nguồn vốn đầu tư lại tương đối khiêm tốn, hạn hẹp thì chính khoa học công nghệ cùng với nguồn nhân lực sáng tạo sẽ là yếu tố quyết định của sự tăng trưởng ổn định và phát triển của đất nước một cách bền vững. Đảng, Nhà nước phải thực sự tin tưởng tuyệt đối vào Nhân dân, yêu thương Nhân dân, nắm rõ cội nguồn sức mạnh của cách mạng. Vì vậy, trước hết phải luôn nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, từ đó có nhiều chính sách khơi dậy và phát huy trí tuệ, sáng kiến và sức sáng tạo mỗi người. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, bởi chỉ trên nền tảng nhận thức thấu đáo, sâu sắc, toàn diện vai trò của việc phát huy trí tuệ của Nhân dân thì việc đề ra các chủ trương, giải pháp, chính sách, chương trình thực hiện trong thực tế…mới có tính đúng đắn, phù hợp và thiết thực.
Hai là, Nhà nước phải nhanh chóng có những hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời để các thủ tục đăng ký bản quyền tác chế được nhanh chóng, thuận lợi nhất cho các tác giả, chủ nhân của các phát minh, sáng kiến. Đúng như quan điểm của Bác đã chỉ dẫn, rằng những sáng kiến, phát minh không phải chỉ đến từ các chuyên gia, nhà khoa học, tầng lớp trí thức, mà còn đến từ mọi tầng lớp Nhân dân. Vì vậy, làm thế nào để quần chúng Nhân dân được tạo mọi điều kiện thuận lợi, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước; trở thành những chuyên gia, những nhà khoa học với các phát minh, sáng chế hữu ích, mang lại giá trị kinh tế- xã hội thiết thực trên các lĩnh vực là điều Đảng, Nhà nước phải hết sức quan tâm và chú trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều nông dân, công nhân, thợ điện, nhân viên lao công… – những con người lao động hết sức bình thường đã tự mày mò nghiên cứu chế tạo được nhiều loại máy móc, thiết bị, có những cải tiến kỹ thuật sáng tạo phục vụ cho sản xuất, hoạt động công tác, nơi làm việc góp phần giảm nhẹ sức lao động, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm…trở thành những tấm gương điển hình tiên tiến trong cộng đồng xã hội. Nhiều phát minh, sáng kiến đến từ trí tuệ của Nhân dân đã được đưa vào ứng dụng rộng rãi trong đời sống, mang lại những giá trị tiện dụng, lợi ích kinh tế to lớn. Tuy nhiên, các loại thủ tục pháp lý có liên quan đến sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, công nhận sáng chế…còn khá rườm rà, gây khó khăn cho người dân trong việc thực hiện hồ sơ, giấy tờ, thủ tục. Vì vậy, các cơ quan chức năng của nhà nước cần phải phải mau chóng có những hướng dẫn và hỗ trợ kịp thời để các thủ tục đăng ký liên quan đến bản quyền tác chế được tiến hành nhanh nhất, thuận lợi nhất, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tác giả.
Ba là, cần thực hiện tốt công tác tuyên dương, khen thưởng các phát minh, sáng kiến. Công tác khen thưởng phải kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, chính xác, có tác dụng nhiều mặt. Trí tuệ, cống hiến của quần chúng Nhân dân phải được ghi nhận và lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội bằng hoạt động biểu dương kịp thời và các hình thức khen thưởng xứng đáng đến từ Đảng, Nhà nước. Đây là giải pháp rất cần thiết, phải được các cấp ngành chú trọng, quan tâm thực hiện. Bởi lẽ, việc tôn vinh, khen thưởng kịp thời đó trước hết là sự ghi nhận, đánh giá cao của Nhà nước, của xã hội đối với công sức, trí tuệ, sự cố gắng của các cá nhân đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của xã hội, đất nước. Đây chính là nguồn cổ vũ, động viên to lớn khiến cho các tác giả, các chủ nhân của các phát minh, sáng chế thêm phấn khởi, tự hào, càng nỗ lực hăng say, có thêm động lực tích cực hơn trong phát huy năng lực của bản thân, đồng thời nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra giá trị lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng để khuyến khích, phát huy trí tuệ của Nhân dân vào công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước hiện nay.
Bốn là, trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, để mỗi người dân có được Tâm – Tài – Trí, mang hết sức mình cống hiến, có những sáng chế hữu ích, mang lại hiệu quả cao thì giải pháp có tính căn cơ, bền vững, lâu dài chính là cần tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước. Các chủ trương, chính sách này phải lấy dân làm gốc, luôn quan tâm chăm lo đến khắp mọi tầng lớp trong xã hội, đó là một hệ thống chính sách hoàn chỉnh hướng vào các giá trị nhân văn cao đẹp mà xã hội loài người luôn hướng tới, giúp phát huy nhân tố con người; để Nhân dân có điều kiện sinh sống, học tập, lao động và cống hiến hết mình cho đất nước, cho Tổ quốc. Trong đó, các chính sách quan trọng hàng đầu phải thực hiện thật tốt như chính sách về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm, an sinh xã hội để phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính năng động và sức sáng tạo của con người. Tập trung phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ, ưu tiên công tác chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài, nuôi dưỡng, bồi đắp nguồn trí tuệ Việt Nam ngày càng lớn mạnh, trọng dụng nhân tài, sử dụng nhân lực chất lượng cao khoa học, hợp lí, hiệu quả. Đây chính là sức mạnh nội sinh thúc đẩy và quyết định kinh tế - xã hội nước ta phát triển nhanh và bền vững.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ và sức mạnh của quần chúng Nhân dân đã thể hiện tầm cao trí tuệ và đạo đức của một bậc trí hiền. Đơn giản, ngắn gọn mà súc tích, quả thực “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận". Hồ Chí Minh đã làm nổi bật những nội dung sâu sắc, toàn diện về phát huy trí tuệ của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của Nhân dân, thấy được tính tất yếu của việc phát huy các nguồn lực của Nhân dân, Hồ Chí Minh còn chỉ dẫn những cách thức, việc làm hết sức khoa học, hiệu quả để phát huy sức mạnh từ tài trí của Nhân dân. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong giai đoạn hiện nay, bằng các giải pháp khoa học, toàn diện, đồng bộ, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khơi nguồn, bồi đắp, nuôi dưỡng và phát huy trí tuệ của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng thời kỳ mới, sớm hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển thịnh vượng, tiến tới đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 12, tr. 283.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 453
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 247
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 502
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 668
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 335,
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.284-285
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.285
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 333
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr.334
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 283
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 622
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 81
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t12, tr.672.