Tóm tắt: Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, phụ nữ Việt Nam luôn khẳng định vai trò quan trọng của mình. Sinh thời, Bác Hồ đã dành tặng phụ nữ Việt Nam: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tươi đẹp, rực rỡ"[1]. Ngày nay, trong bối cảnh kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, cùng sự biến chuyển của xã hội, vai trò của phụ nữ trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng quan trọng. Việc phát huy sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ thể hiện tinh thần bình đẳng giới mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của Đảng và nhà nước.
Từ khóa: Vai trò phụ nữ/xây dựng đảng/HTCT/kỷ nguyên mới
1. Khái quát yêu cầu của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đặt ra cho phụ nữ Việt Nam
Kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam là giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng với thế giới, tận dụng các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số. Đây là thời kỳ đổi mới tư duy, thúc đẩy sáng tạo, phát huy nội lực, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định đây là thời kỳ quan trọng để đưa đất nước phát triển bền vững, hiện đại hóa mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ là sự phát triển về kinh tế mà còn thể hiện ở việc nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội và phát huy tối đa nguồn nhân lực, trong đó phụ nữ giữ vai trò then chốt. Để đạt được mục tiêu này, việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng Đảng, hệ thống chính trị là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần tạo nên một xã hội tiến bộ, văn minh và bền vững.
Tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, dũng cảm và gan dạ của biết bao thế hệ Phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ Việt Nam ngày nay tiếp tục tỏ rõ năng lực và khẳng định mình trong các lĩnh vực của đời sống; trong đó, phải kể đến lĩnh vực xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Vừa giữ gìn và phát huy các chuẩn mực của người phụ nữ hiện đại là phải “giỏi việc nước, đảm việc nhà", vừa phát huy truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu và 8 chữ vàng Bác Hồ trao tặng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang", tự tin bước vào kỷ nguyên mới với vai trò, trọng trách hết sức quan trọng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số mạnh mẽ, phụ nữ Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Để khẳng định vai trò của mình trong gia đình, xã hội và nền kinh tế, phụ nữ cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Một là, nâng cao tri thức, kỹ năng và năng lực số
Kỷ nguyên mới đòi hỏi phụ nữ phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm và tư duy sáng tạo. Thành thạo công nghệ số: Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và thương mại điện tử yêu cầu phụ nữ phải thành thạo công nghệ, sử dụng hiệu quả các nền tảng số để làm việc và kinh doanh. Đồng thời, có tư duy đổi mới và sáng tạo, có khả năng thích nghi nhanh chóng với các xu hướng mới là yếu tố quan trọng để thành công trong mọi lĩnh vực.
Hai là, khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế số và hội nhập quốc tế. Phụ nữ ngày nay tham gia vào thị trường lao động chất lượng cao. Điều này, đòi hỏi phụ nữ cần nâng cao tay nghề, làm chủ kỹ năng số để không bị tụt hậu trong nền kinh tế số. Phụ nữ ngày càng có cơ hội tham gia khởi nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử, kinh tế xanh và công nghệ cao. Điều này đặt ra yêu cầu cho phụ nữ cần trang bị ngoại ngữ, hiểu biết về luật pháp và văn hóa quốc tế để tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do.
Ba là, đảm bảo sức khỏe và cân bằng cuộc sống. Kỷ nguyên mới với áp lực công việc và gia đình đòi hỏi phụ nữ phải quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe bản thân. Có kỹ năng quản lý thời gian và cân bằng giữa công việc – gia đình. Điều đó, đòi hỏi phụ nữ cần xây dựng lối sống khoa học để vừa phát triển sự nghiệp, vừa đảm bảo hạnh phúc gia đình.
Bốn là, phát huy vai trò trong gia đình và xã hội. Dù xã hội hiện đại, vai trò của phụ nữ trong việc giáo dục con cái, xây dựng gia đình hạnh phúc vẫn rất quan trọng. Thêm vào đó, phụ nữ cũng cần tích cực tham gia hoạt động thiện nguyện, bảo vệ môi trường và thúc đẩy bình đẳng giới.
Năm là, Phát triển bản thân và khẳng định vị thế. Xã hội hiện đại đòi hỏi phụ nữ phải có tư duy độc lập, dám nghĩ, dám làm và không ngại thay đổi. Phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội để trở thành lãnh đạo, quản lý, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ.
2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định: “công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng". Đảng ta luôn quan tâm chăm lo công tác cán bộ nữ và coi đó là một bộ phận quan trọng, mang tính chiến lược trong công tác cán bộ của Đảng. Đảng ta xác định xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng, là chính sách nhất quán - một trong những nhiệm vụ cốt yếu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam trong những năm qua. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật về cán bộ nữ, về bình đẳng giới nhằm phát huy giá trị và vai trò của người phụ nữ tham gia xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Ngay từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên năm 1930, Đảng đã xác định phụ nữ là lực lượng cách mạng to lớn và tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia các lĩnh vực phát triển đất nước. Tiếp đến, Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã khẳng định “Phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi phương diện". Từ chỗ bình quyền với nam giới thể hiện một cách chung chung trong Hiến pháp đầu tiên, quyền của phụ nữ đã được cụ thể hóa và được thể hiện đầy đủ, toàn diện hơn trong Hiến pháp thứ hai năm 1959, theo đó “Phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội". Và các bản Hiến pháp tiếp theo đều ghi nhận về quyền bình đẳng đó. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, vai trò tham gia xây dựng đảng, hệ thống chính trị tiếp tục được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Tại Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới" đã nhấn mạnh tới việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ; là điều kiện để phụ nữ tham gia vào công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Nhiệm vụ đặt ra là cần phải chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ và khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ nữ.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (Sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 11-NQ/TW) nêu rõ: “Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới", đồng thời xác định: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng". Nghị quyết số 11-NQ/TW xác định nguyên tắc và đề ra chỉ tiêu: “Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm cán bộ; phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới; và cần bảo đảm nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên"[2].
Chỉ thị 36-CT/TWngày 30-5-2014 của Bộ Chính trị “về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra yêu cầu hết sức cụ thể đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương tới địa phương về công tác cán bộ nữ. Theo đó, phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ không dưới 15% và cần có nữ tham gia ban thường vụ; nếu nơi nào chưa bảo đảm được tỷ lệ nêu trên thì phải bầu thiếu số lượng để tiếp tục chuẩn bị và sẽ bổ sung sau.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị, ngày 20-01-2018 Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW “về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới", trong đó chỉ rõ “Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác cán bộ nữ; hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh… nhằm xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới".
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ" xác định mục tiêu, nhiệm vụ giải quyết những vấn đề then chốt, cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Trong đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định chỉ tiêu: Đến năm 2030 phải có cơ cấu cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%.
Đặc biệt là Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị khóa XII “về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng" và Chỉ thị số 35-CT/TWngày 14-6-2024 của Bộ Chính trị khóa XIII “về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng" đều xác định chỉ tiêu về cơ cấu cán bộ nữ: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ". Kết luận số 75-KL/TW ngày 30-5-2020 về phương hướng nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đưa ra chỉ tiêu: Tỷ lệ Ủy viên Trung ương Đảng (gồm cả dự khuyết) là cán bộ nữ từ 10-12%. Thông báo số 174 ngày 8-6-2020 thông báo kết luận của Bộ Chính trị về phương hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biều hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 có nêu: Đại biểu là phụ nữ bảo đảm tỷ lệ ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân; phấn đấu tỷ lệ trúng cử khoảng 30%. Về công tác quy hoạch, Quy định số 50-QĐ/TW, ngày 27/12/2021 của Bộ Chính trị về quy hoạch cán bộ quy định: “Phấn đấu cơ cấu, tỷ lệ quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo quản lý các cấp theo hướng cán bộ nữ từ 25% trở lên".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định sự quan tâm, trách nhiệm cũng như những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đặt ra để giải quyết các vấn đề về công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, đó là “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế", trong đó, vị trí, vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng cao, từng bước đóng góp nhiều hơn vào mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội và phát triển chung của đất nước.
Quyết định số 2282/QĐ-TTg ngày 31/01/2020 phê duyệt Chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng giới của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021-2030" đề ra mộ số chỉ tiêu: Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp đạt ít nhất 40% vào năm 2025 và 50% vào năm 2030. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp được đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực đạt 75% vào năm 2025 và đạt 90% vào năm 2030.
Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 đưa ra một số mục tiêu cụ thể như: “Trong lĩnh vực chính trị: Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ"; “Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Tỷ lệ nữ thạc sĩ trong tổng số người có trình độ thạc sĩ đạt không dưới 50% từ năm 2025 trở đi. Tỷ lệ nữ tiến sĩ trong tổng số người có trình độ tiến sĩ đạt 30% vào năm 2025 và 35% vào năm 2030".
Các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn bản của Nhà nước là cơ sở rất quan trọng để tăng cường và phát huy vai trò to lớn phụ nữ, đặc biệt là của của đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị ở các cấp hiện nay.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự thống nhất hành động trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ không ngừng được đổi mới, hoàn thiện và tổ chức thực hiện đồng bộ; đã phát huy vai trò của phụ nữ trong công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình.
3. Thực trạng vai trò của phụ nữ trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Sự tham gia tích cực của họ không chỉ góp phần thúc đẩy bình đẳng giới mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tăng cường tỷ lệ nữ trong các vị trí lãnh đạo: Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm nâng cao tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Nhờ đó, số lượng cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể ngày càng tăng, thể hiện sự tiến bộ trong công tác cán bộ nữ. Tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan lãnh đạo: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV (2021-2026) đạt 30,26%, tăng nhẹ so với khóa trước. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 26,5%, cấp huyện 27,9% và cấp xã 21,6%. Tỷ lệ ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (2021-2026) là 12,6%, tăng so với khóa XII. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy cấp tỉnh đạt 15%, cấp huyện 18%. [3]
Mặc dù có nhiều thành tựu nhất định về tỷ lệ phụ nữ tham gia vào công tác xây dựng đảng, hệ thống chính trị. Tuy nhiên, những định kiến về vai trò truyền thống của phụ nữ vẫn ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến và tham gia chính trị của họ. Tỷ lệ tham gia chưa đồng đều, ở một số địa phương, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo còn thấp, chưa phản ánh đúng tiềm năng và đóng góp của họ trong xã hội.
4. Giải pháp phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng đảng và hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới
Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo sự công bằng, phát huy tối đa nguồn nhân lực nữ trong phát triển đất nước. Để đạt được điều này, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị. Bổ sung, hoàn thiện quy định về tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo ở các cấp trong hệ thống chính trị, đảm bảo tính khả thi và thực hiện nghiêm túc. Tăng cường giám sát việc thực hiện các chính sách bình đẳng giới để tránh hình thức, đảm bảo phụ nữ có cơ hội thực sự để tham gia lãnh đạo và quản lý. Lồng ghép giới trong các chương trình, kế hoạch phát triển của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ đóng góp tích cực vào hệ thống chính trị.
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ nữ dài hạn, trong đó có các chương trình phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản lý dành riêng cho phụ nữ. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng tranh cử, diễn thuyết và tham gia hoạch định chính sách. Xây dựng đội ngũ cố vấn, hỗ trợ nữ cán bộ trẻ, giúp họ có cơ hội học hỏi, phát triển và thăng tiến trong hệ thống chính trị.
Ba là, xóa bỏ rào cản về định kiến giới. Tăng cường tuyên truyền về bình đẳng giới, thay đổi nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý. Khuyến khích nam giới tham gia thúc đẩy bình đẳng giới, hỗ trợ phụ nữ phát triển sự nghiệp chính trị mà không bị ràng buộc bởi định kiến truyền thống. Tạo môi trường làm việc thân thiện với phụ nữ, cân bằng giữa trách nhiệm gia đình và công việc, hỗ trợ chính sách nghỉ thai sản, chăm sóc con cái.
Bốn là, mở rộng cơ hội và tạo động lực cho phụ nữ tham gia chính trị. Khuyến khích phụ nữ tham gia các tổ chức Đảng, đoàn thể, từng bước rèn luyện bản lĩnh và kỹ năng chính trị. Hỗ trợ phụ nữ ứng cử vào các vị trí lãnh đạo, đảm bảo công khai, minh bạch và bình đẳng trong quá trình bổ nhiệm, bầu cử. Tạo môi trường chính trị thuận lợi để phụ nữ phát huy vai trò, không bị phân biệt đối xử hay hạn chế cơ hội thăng tiến.
Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức hội phụ nữ và mạng lưới hỗ trợ. Nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi chính trị của phụ nữ, đề xuất các chính sách hỗ trợ cán bộ nữ. Xây dựng mạng lưới phụ nữ lãnh đạo, kết nối, chia sẻ kinh nghiệm giữa những người đi trước với thế hệ trẻ. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các nước có tỷ lệ nữ tham gia chính trị cao, áp dụng mô hình phù hợp với Việt Nam.
Nhìn chung, phụ nữ Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là một yêu cầu tất yếu trong kỷ nguyên vươn mình. Phụ nữ không chỉ là những người tham gia mà còn là những người định hướng, lan tỏa tinh thần cách mạng, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình./.
[1] Trích từ Thư Bác Hồ gửi phụ nữ nhân dịp kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 năm 1952.
[2]Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"
[3] https://lyluanchinhtri.vn/phu-nu-tham-gia-chinh-tri-o-viet-nam-thanh-tuu-thach-thuc-va-mot-so-giai-phap-trong-giai-doan-moi-1348.html